[ad_1]
55 địa phương đề xuất bổ sung nguồn điện (gió, khí) vào quy hoạch phát triển điện VIII, với tổng công suất đặt hơn 440.000 MW.
Là hai địa phương có nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, mặt trời) phát triển bùng nổ thời gian qua, tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận xin bổ sung vào quy hoạch điện VIII lần lượt hơn 25.300 MW và 42.595 MW. Phần lớn nguồn điện năng lượng tái tạo mà hai địa phương này xin bổ sung vào quy hoạch là điện gió ngoài khơi với những dự án rất lớn, như tại Bình Thuận là các dự án điện gió ngoài khơi Thăng Long Wind 3.400 MW; La Gàn 3.500 MW, Tuy Phong 4.600 MW, Bình Thuận 5.000 MW.
Còn tỉnh Ninh Thuận muốn bổ sung gần 1.900 MW điện gió trên bờ, 4.400 MW điện gió gần bờ, và 21.000 điện gió ngoài khơi vào quy hoạch điện VIII.
Không riêng các tỉnh Nam Trung Bộ, một số địa phương phía Bắc như Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định… cũng muốn được bổ sung lượng lớn công suất điện gió, điện khí vào quy hoạch điện VIII lần này.
Chẳng hạn, Quảng Ninh muốn bổ sung khoảng 5.000 MW điện gió (3.000 MW là điện gió ngoài khơi, 2.000 MW điện gió trên bờ). Riêng từ nay đến năm 2030 tỉnh này đề xuất đưa 2.500 MW (điện gió trên bờ 2.000 MW và 500 MW điện gió ngoài khơi) vào quy hoạch.
Hải Phòng đề nghị bổ sung 3.900 MW điện gió ngoài khơi; Thái Bình cũng muốn đưa 8.700 MW điện gió, hay Nam Định xin bổ sung 12.000 MW… vào quy hoạch điện VIII.
Việc các địa phương đồng loạt xin bổ sung vào quy hoạch lượng lớn công suất năng lượng tái tạo, nhất là điện gió, điện khí, diễn ra trong bối cảnh Bộ Công Thương đang phải hoàn thiện lại quy hoạch điện VIII, cập nhật những cam kết của Thủ tướng Phạm Minh Chính về giảm phát thải ròng về 0 tại hội nghị COP 26.
Quá trình hoàn thiện bản quy hoạch này, Bộ Công Thương được yêu cầu rà soát lại quy hoạch nguồn điện than sau năm 2030 theo hướng chuyển đổi nhiên liệu hoặc không tiếp tục phát triển nếu dự án không có các ràng buộc, có nguy cơ gây thiệt hại về kinh tế. Cùng đó, lãnh đạo Chính phủ cũng yêu cầu cân nhắc tăng thêm quy mô điện gió ngoài khơi và nghiên cứu cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển nguồn điện này.
Dù vậy, việc các địa phương “đua” xin bổ sung quy hoạch nguồn điện gió với tổng công suất gấp 3 kịch bản Bộ Công Thương đưa ra đến năm 2030, khiến không ít giới chuyên gia năng lượng bất ngờ.
Theo họ, Việt Nam có tiềm năng lớn và có thể thành trung tâm điện gió ngoài khơi, nhưng việc đồng loạt các địa phương muốn xin bổ sung loại năng lượng này với tổng công suất đặt rất lớn, lại đặt ra nhiều vấn đề trong khi bài học nhãn tiền phát triển “nóng” điện mặt trời vẫn còn đó.
Chia sẻ với VnExpress, ông Nguyễn Văn Vy, Phó chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam tỏ ý lo ngại khi các địa phương ồ ạt xin bổ sung lượng lớn công suất nguồn đặt điện gió, điện khí LNG.
Con số xin bổ sung quy hoạch của các địa phương đã gấp gần 3 lần kịch bản đến năm 2030 mà Bộ Công Thương đưa ra tại phương án tính toán dự thảo quy hoạch điện VIII vào tháng 11. Trong đó, lượng công suất điện gió ngoài khơi mà các địa phương xin bổ sung vượt xa con số trong kịch bản của Bộ Công Thương là 4.000 MW vào năm 2030; 10.000 MW vào 2035, rồi tăng lên 23.000 MW vào 2040 và đạt 36.000 MW vào năm 2045.
Việc xin bổ sung lượng lớn nguồn điện gió, điện khí vào quy hoạch như vậy, ông Vy nhận xét chắc chắn ảnh hưởng tới tính toán cân đối nguồn của quy hoạch. “Điện không phải cứ có bao nhiêu là dùng bấy nhiêu như những loại hàng hoá khác. Việc bổ sung không thể ồ ạt, nên Bộ Công Thương phải cân đối, tính toán sẽ cần bao nhiêu, cần ở đâu để thẩm định, phê duyệt phù hợp. Sẽ mất thêm thời gian cho việc này”, Phó chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nhìn nhận.
Tại toạ đàm mới đây về đầu tư điện gió, ông Nguyễn Anh Tuấn, chuyên gia năng lượng, nguyên Giám đốc Trung tâm Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) cho rằng, đầu tư điện gió có nhiều ưu điểm hơn nhưng lại yêu cầu tính phức tạp về kỹ thuật, nhất là điện gió ngoài khơi. Ngoài ra, Việt Nam cũng chưa có kinh nghiệm phát triển điện gió ngoài khơi, tỷ lệ nội địa hoá thấp, hình thức chủ yếu vẫn là nhập toàn bộ về vào lắp đặt.
Ông Tuấn lưu ý, lựa chọn con đường phát triển cho điện gió cần cơ chế chính sách, đặc biệt là cơ chế chia sẻ rủi ro khi toàn bộ đang đặt trên vai chủ đầu tư.
Điện gió, chủ yếu là điện gió trên bờ, ở Việt Nam trong 10 năm qua phát triển đột phá, nhất là trong năm 2021 khi các nhà đầu tư “chạy đua” nối lưới để kịp vận hành thương mại trước ngày 30/10/2021 hưởng giá FIT ưu đãi trong 20 năm. Từ 30 MW vào năm 2011, điện gió đã đạt công suất đặt 4.800 MW vào năm 2021.
Sự phát triển này là nhờ chính sách ưu đãi về giá với điện gió. Với bối cảnh hiện tại, ông Nguyễn Văn Vy lưu ý sự hài hoà giữa chính sách và nguồn điện, lưới truyền tải điện. Nhắc lại bài học bùng nổ phát triển điện mặt trời cách đây hai năm, tính chất và bản chất giữa điện gió và mặt trời khác nhau, nhưng ông cũng đặt vấn đề nếu không có sự kiểm soát tốt vẫn có thể dẫn tới một cuộc bùng nổ phát triển điện gió tương tự.
Việc các tỉnh “đua” đề nghị bổ sung lượng lớn nguồn điện tái tạo này vào quy hoạch cũng sẽ tiềm ẩn rủi ro cả phía đầu tư, cân đối an toàn hệ thống và lưới truyền tải điện. “Dự án vào quá nhiều, ồ ạt trong khi lưới truyền tải không đáp ứng, các dự án lại đối diện việc bị cắt giảm công suất. Trong khi đó, hiện chính sách cho điện gió sau ngày 30/10/2010 chưa được Bộ Công Thương đưa ra rõ ràng, việc phát triển nóng sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro”, ông đánh giá.
Anh Minh
[ad_2]